- Ông cụ Vạn ở xóm giếng héo sữa rồi.
- Sao cụ ấy về dễ dàng thế. Chiều hôm qua còn gặp chăn bò
trước cửa chùa Hoa Đạo.
- Thế mới gọi là tiên cảnh ngàn thu. Ông cụ đi như đi ngủ. Mười giờ đêm còn ngồi xem phim Tam Quốc diễn
nghĩa. Cứ tấm tắc khen cái đoạn Tào Tháo
và Lưu Bị uống rượu luận anh hùng. Một
lúc sau kêu tức ngực, lên giường nằm thế là đi luôn.
Chuyện cụ Vạn quy tiên chỉ một lúc sau đã lan truyên khắp
làng Thượng.
Nghĩa tử là nghĩa tận, bà con làng xóm, họ hàng nội ngoại
đều xếp sắp công việc đến chia buồn với gia đình người quá cố và tiễn đưa linh
cữu đến nơi an nghĩ cuối cùng, đào sâu, chôn chặt, mồ yên mả đẹp.
Ở làng Thượng từ
xưa, không ăn uống, rượu chè trong đám hiếu.
Các cụ bảo, người than khóc sầu não về nỗi mất mẹ, mất cha, kẻ ngồi chè
chén còn ra làm sao nữa! Nhưng làng cũng
có lệ sau khi phát tang, thường lưu giữ thi hài người quá cố, nhất là người cao
tuổi, con cháu đề huề, ở trong nhà một đêm để kèn trống và để họ hàng, bằng hữu
xa gần phúng viếng. Gần đây lại phục hồi
tục: Khi sinh thời yêu ai sâu sắc thì lúc
về cảnh tiên, người bạn tình đến vĩnh biệt và đặt ngang quan tài một dải lụa
hồng. Ngày xưa, con gái lấy chồng, con
trai lấy vợ là do mẹ sắp đặt. Còn yêu
nhau, bởi phận tơ hồng trời se. Ý trời
hẳn phải hơn ý người. Nhưng đến khi một
người sang cõi vĩnh hằng, người còn lại mới dám công khai. Điều đó, khiến người đời thêm tò mò, phỏng
đoán.
Có người đến viếng
ông cụ Vạn xong còn ngó vào tận linh cữu xem đã có dải lụa hồng nào chưa. Và khi quay ra, họ lắc đầu, bảo:
- Quan tài còn trống lắm.
Tịnh chưa có một dải lụa nào. Cái
đám nầy buồn bỏ mẹ. Chẳn bù cho đám bà Lý. Vừa đúng ba cỗ dải lụa hồng
nhé.
- Bì thế nào được với bà Lý. Bà ấy đẹp người đẹp nết nên
nhiều ông mê là phải.
- Bà Na chả đẹp ư?
Vậy mà khi hết cơm, hết gạo chả có một dải lụa nào. Con cháu cứ buồn thiu.
Con cháu bà Lý có
mặt trong đám ma cụ Vạn có vẻ tự hào, mãn nguyện về mẹ, về bà mình lắm. Họ tự hào, mãn nguyện là phải. Họ đã đón tiếp những người bạn tình của mẹ
mình niềm nở, trân trọng và biết ơn. Bởi
những người ấy dám vượt lên mọi hoàn cảnh để đến với mẹ mình thật đúng lúc.
Người đời thật
lạ. Sinh thời, chúa ghét chuyện gió
trăng. Rồi ghen tuông, oán hờn, thù giận
tình địch của mình. Vậy mà khi người
thân ra đi, lại cảm thầy tủi phận, trống vắng nếu như trên nắp quan tài không
có lấy một dải lụa hồng. Người ta bảo
nhau, ông ấy, bà ấy phải là người trai tài gái sắc thế nào mời được nhiều người
yêu đến thế. Tục ở làng Thượng, người
nào càng giữ chặt được mối tình của mình ở trong lòng đến lúc nhắm mắt xuôi
tay, con cháu mới biết thì tình yêu ấy mới thật sự cao quý, thiêng liêng. Còn để lộ ra, làng biết cả rồi, còn mang lụa
đến làm gì nữa.
Phải giữ được bí mật
như ông Dinh, xóm Đình mới tài. Trước
khi cải tạo tư thương, ông Dinh làm chủ ba quả lò vôi. Ông ngược xuôi bán vôi khắp Hà Nội, Sơn Tây,
chả có điều gì. Khi sắp lâm chung, ông
Dinh mới chỉ chỗ cho vợ con đào hai cái ấm tích lên, bảo: “Số vàng này đã chia theo di chúc. Cúng ba ngày xong mới được thực hiện. Và phải điện khẩn cho người nầy, người nầy
…” Bấy giờ vợ con mới vỡ nhẽ, ông có ba
người tình. Vàng chia cho vợ, cho người
yêu và các con trai con gái như nhau.
Khi linh cữu ông Dinh còn quàn trong nhà, có hai bà người Hà Nội về vắt
hai dải lụa lên. Còn bà ở Phú Thọ, mãi
hôm cúng ba ngày, mới tất tưởi đem dải lụa vắt qua nấm mộ. Di chúc ông còn nói rõ rằng sở dĩ ông có được
bấy nhiêu vàng là nhờ vào công sức của tất cả các bà.
Trở lại chuyện đám
ma cụ Vạn.
Gần như cả buổi sáng
hôm sau, chốc chốc lại có người làng Thượng ngó vào linh cữu. Người sau theo người trước, họ lắc đầu quay
ra. Điều đó, khiến vợ con cụ Vạn tủi
thân lắm.
Những người đi đào
huyệt đã về. Xóm làng rộn rịp chuẩn bị
đưa cụ Vạn đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Giữa lúc đó, một
người tung niên, mái tóc lốm đốm bạc, ăn mặc kiểu thành phố, vét tông màu đen,
đeo băng tang đen thong thả đi vào sân.
Trông cặp mắt, bước đi đều tỏ ra điềm tĩnh, tự nhiên. Ông cung kính cúi chào bà con, đúng theo nghi
lễ làng Thượng rồi không phải hỏi thăm ai, bước tới trước mặt người em ruột cụ
Vạn, chắp tay, cúi đầu, nói nhỏ mấy câu.
Ông cụ mở tròn mắt nhìn người khách lạ rồi gật gật đầu. Bấy giờ khách mới từ từ đi vào bên linh cữu
nhìn rất lâu vào gương mặt vàng bệch của cụ Vạn qua tấm kính. Đoạn người khách gục xuống qua tài đau đớn
kêu lên một tiếng như vỡ ra tự trong tim:
Người làng Thượng
chăm chú theo dõi từng cử chỉ của ông khách chưa một lần xuất hiện, cùng thốt
lên:
- Thảo nào, tôi đã nghi từ đầu.
- Trông cũng nhang nhác giống cụ Vạn.
- Giống như hai giọt nước chứ nhang nhác gì.
- Không biết hỏi thăm ai mà biết cụ Thọ là chú ruột mới tài.
- Mẹ của ông ấy còn hay mất mà không thấy nhỉ?
Mồ côi cha mẹ từ bé,
anh em ông Vạn mỗi người phiêu dạt một nơi mãi sau ngày giải phóng Điện Biên,
mới gặp nhau. Ông Thọ bị mẹ mìn đem lên
mạn ngược bán cho người Thổ. Rồi tham
gia quân đội, chiến đấu ở vùng Thượng Lào.
Còn ông Vạn đi ở
chùa Hoa Đào. Đó là một ngôi chùa nhỏ
nằm ẩn mình dưới chân núi Phượng Hoàng, một quả núi đá vôi cao chót vót và có
nhiều hang động thuộc địa phận làng Cả, cách làng Thượng một cánh đồng. Xung quanh chùa trồng toàn đào ăn quả. Mùa xuân về, hoa đào thắm hồng một sườn
núi. Lúc còn nhỏ, ông Vạn trông coi vườn
đào, quét chùa, chăn bò. Lớn lên, ông
Vạn trở thành lực điền của nhà chùa. Năm
ông ngoài hai mươi tuổi, sư cụ trụ trì có thêm đồ đệ mới. Chú tiểu nữ, có dáng người tầm thước, da
trắng như trứng gà bóc, đôi mắt lóng lánh luôn luôn nhìn xuống. Chú sáng dạ, chăm làm, thông tỏ kinh Phật,
thuộc làu Chư Kinh nhật tụng, lại giỏi việc nhà, thạo việc đồng áng, từ xay
lúa, sàng gạo đến tát nước, nhổ mạ, cấy, gặt, hái rau. Nhiều trưa, tiểu không nghỉ, xay ầm ầm mấy
thúng thóc liền. Có hôm thóc hết tự lúc
nào, răng cối va vào nhau xàn xạt, thớt trên rung bần bật như lên đồng mà chú
vẫn mải mê. Không việc gì, tiểu không làm được.
Ngoài sư cụ, không ai biết tiểu là gái Hà Thành, tên gọi Hoàng Tú Oanh,
sinh trưởng trong một gia đình buôn bán giầu có, được dạy dỗ, học hành chu
đáo. Mười sáu tuổi, bố mẹ cho cô đi
tu. Bởi đi xem ở đâu người ta cũng bảo
số cô nặng căn lắm, lại đào hoa bạc mệnh nên phải gửi thân ép xác cửa thiền. Cô được gửi gắm người cô họ đang trụ trì chùa
Vân Hồ, một chùa lớn bên hồ Bảy Mẫu, phía Nam Hà Nội. Ba năm sau, sư cụ Vân Hồ thấy mỗi ngày tiểu
một đẹp rực rỡ, sợ để ở chốn Hà Thành đô
hội, thường ngày tiếp xúc với bao giai nhân, tài tử thì khó mà ép xác cho tròn
quả phúc, bèn gởi cho người bạn đồng đạo ở chốn thôn quê hẻo lánh.
Ở chùa đã khổ hạnh,
chùa nghèo, chùa nhỏ ở chốn thôn quê còn khổ hạnh bội phần. Quanh năm chỉ có cơm gạo cũ với rau muống già
chấm tương. Thỉnh thoảng có bửa “cá”
kho. Đó là những quả mướp đắng, cắt
khoanh, om tương. “Cá” nhà chùa, ăn đắng
từ trong ruột, đắng ra. Thoạt đầu tiểu
Oanh nôn mật xanh, mật vàng. Sau rồi
quen đi, lại thấy ngon. Con gái ở tuổi
dậy thì, ăn bao nhiêu cũng chẳng biết no, nhịn vài bửa cũng không thấy đói, ăn
khổ mấy vẫn thấy ngon miệng. Cơ thể tiểu
Oanh cứ rừng rực, rừng rực như bốc lửa.
Lửa bốc từ trong lòng bốc ra.
Thức thâu đêm, đọc bao nhiêu kinh cũng không dập tắt được. Nhiều đêm lửa còn thiêu đốt cả kinh kệ, chữ
nghĩa nhà Phật. Tiểu Oanh bỏ kinh đi xay
lúa, giã gạo. Càng xay, càng giã, lửa
càng bốc cao. Ba bốn giờ sáng, trời lạnh
cứa da, cứa thịt, tiểu Oanh lội xuống ao vớt bèo những mong cái buốt cái rét
giá thấu xương dập tắt ngọn lửa lòng đi …
Sư cụ và các vãi vẫn
thầm khen, tiểu Oanh chịu khổ xác. Chăm
làm như anh lực điền Vạn cũng lắc đầu, không sao theo kịp tiểu Oanh.
Năm ấy, mùa hè, anh
Vạn cày bừa mấy thửa ruộng ở phía sau chùa.
Đi vòng vài trăm bước qua đầu núi là về tới “nhà”. Về chùa dềnh dàng sợ nghĩ lâu. Trưa nào, tiểu Oanh cũng mang cơm ra cho anh
Vạn. Tiểu không bao giờ gọi, chỉ lẳng
lặng để cơm vào chỗ cửa hang hình khum khum tựa mái chòi, nơi anh lực điền vẫn
nghỉ trưa rồi lội xuống ao muống ở sát chân núi, cặm cụi hái từng ngọn rau
già. Anh thợ cày ngẩng lên thấy tiểu hái
rau, biết đã có cơm. Anh cho trâu xuống
một cái chuôm gần đó cho nó đằm còn mình thì rửa chân tay, lên hang ăn cơm.
Trưa hôm ấy, nắng
chết cá. Anh vừa bừa, vừa vớt được bao
nhiêu là cá. Anh chỉ dám cho trâu đằm
một lát rồi dắt lên hang cho nó nghĩ.
Vậy mà tiểu Oanh vẫn cắm cúi hái rau.
Ngọn rau vừa bứt khỏi tay đã héo ràu ràu. Rau đã già lại héo thế kia thì răng nào mà
nhai cho nổi. Chỉ khổ tiểu và mấy người
thợ cấy, thợ cày. Anh Vạn đánh bạo gọi:
- Nhà chùa nghỉ tay một lát đã. Rau già lại héo răng chúng tôi không dứt nổi
đâu.
Chẳng rõ chú tiểu có
nghe rõ không mà chẳng hề có hồi âm. Anh
Vạn lại gọi. Tiểu vẫn mải mê hái
rau. Anh Vạn đâm lo. Khéo tiểu say nắng, gục xuống thì chết
mình. Sư cụ quở trách, biết nói thế
nào. Thế là anh lực điền đâm liều. Anh lội ào xuống ruộng muống, cầm tay tiểu
vừa kéo lên bờ vừa nói:
Lần đầu tiên, anh
thợ cày nhìn trưc diện vào gương mặt, vào cặp mắt tiểu Oanh. Chao ôi, nó cứ bừng bừng, như thiêu đốt
anh. Chẳng hiểu do nắng lửa, hay do anh
cầm vào cổ tay tròng lẳn của tiểu mà cặp mắt, đôi gò má tiểu bừng bừng như thế.
Tiểu Oanh ngồi thụp
xuống cửa hang, thở dốc từng hơi dài, đôi bờ vai rung lên. Anh lực điền sợ lắm! Tiểu Oanh cảm thật rồi, hơi thở nóng như hơi
lửa. Anh thì thầm:
- Tiểu ốm rồi. Để tôi
đưa về.
Anh lựcc điền cúi
xuống cầm cánh tay tiểu định đỡ tiểu đứng dậy.
Chợt tiểu giật bắn người, toàn thân co dúm lại.
- Đừng động vào người tôi.
Đừng động vào tôi.
Nhưng lúc ấy, anh
thợ cày đã cảm thấy trong lòng rạo rực.
Anh trở nên liều lĩnh, bất cần và hành động theo bản năng sai
khiến. Lúc anh cảm thấy cái hang đá chao
nghiêng ngả thì tiểu bất thần kêu lên:
- Ối! Mẹ ơi, con chết
mất!
Rồi tiểu lịm
đi. Đôi mắt nhắm nghiền. Chân duỗi thẳng, hai tay dang rộng. Anh thợ cày sợ hoảng hồn. Mồ hôi vã ra như tắm. Chợt tiểu mở mắt, mỉm cười:
- Anh đừng sợ. Không
sao đâu.
Ba tháng sau, người
làng Cả thấy vắng bóng chú tiểu Oanh.
Các vãi tò mò hỏi. Sư cụ trụ trì chùa Hoa Đào bảo:
- Tiểu Oanh về Hà Nội học thêm kinh kệ.
Dần dần trong ký ức
của mình, người làng Cả đã quên hẳn tiểu Oanh.
Chỉ một vài người già sống cùng thời với tiểu là còn mang máng nhớ, cái
năm sư cụ xây Tháp Xá Lị, có chú tiểu ngoài Hà Thành đẹp lắm về tu ở chùa làng
mình. Được vài ba năm thì chuyển đi nơi
khác. Từ đó đến nay trải mấy chục năm
rồi. Đã có mấy đời sư trụ trì ở chùa Hoa
Đào. Nếu tiểu Oanh còn sống cũng phải
ngót tám mươi.
Thực ra, tiểu Oanh
được bí mật đưa về nhà bố mẹ đẻ chứ không phải đi học thêm kinh kệ như cụ nói.
Sáng sớm hôm ấy nhà
chùa sai anh lực điền Vạn đi tát nước ở mãi cánh đồng Chắt, cách làng Cả phải
tới năm dặm đường. Buổi tối, anh Vạn về
không thấy tiểu Oanh đâu. Hỏi ai cũng
lắc đắc đầu không biết. Anh đánh bạo hỏi
sư cụ. Sư cụ cầm miếng trầu quệt ngang
môi, bảo:
- Bạch cu, tiểu đi có lâu không?
- Hỏi làm gì. Nhà
chùa tha tội chết cho con đấy.
Anh lực điền Vạn sa
sầm mặt mày, tưởng đổ gục xuống như cây chuối hột bị một nhát dao sắc lẹm phạt
ngang gốc. Thảo nào, cả ngày hôm ấy anh
làm việc gì cũng hỏng. Ruột gan nóng cồn
cào. Anh tát nước, liên tục va miệng gàu
vào bờ. Anh làm cỏ, cây thường mực không
nhổ, toàn nhổ vào dảnh lúa. Mấy bà cùng
làm với anh kêu trời kêu đất:
- Nhà chú phải để tâm vào chứ. Làm ăn thế này thì sư cụ đuổi bỏ.
Đận ấy, anh lực điền
Vạn đổ ốm một trận tưởng chết. Hàng
tháng trời, anh không ăn, không ngủ, cổ họng khô bỏng, đắng ngắt, ngực đau tức
như có cái cối đá đè lên. Mỗi ngày vuốt
đầu, tóc rụng đầy kẽ ngón tay. Nỗi đau lặn vào lòng, không người chia sẻ,
không người hỏi han. Anh tưởng được sống
hạnh phúc một đời với tiểu Oanh. Hai
người đã bàn nhau bỏ trốn. Tiểu Oanh bảo
đợi cuối tháng, đêm tối trời, hai đứa cuốc bộ ra Canh Diễn rồi vẫy xích lô
ra xe lửa xuôi xuống Phòng (1), ở Phòng,
Oanh có bà dì ruột thương Oanh lắm. Bà
đã cực lực phản đối bố mẹ đưa Oanh vào nương nhờ cửa Phật. Bà bảo:
- Cứ quẳng nó vào đời đi, cho nó bơi, nó ngụp. Nếu nó không tìm thấy nguồn vui, không tìm
thấy hạnh phúc, lúc ấy đi tu cũng không muộn.
Việc gì phải nghe mấy ông thầy số làm khổ con bé.
Bây giờ, gặp cảnh
ngộ này, nhất định dì sẽ bí mật giúp Oanh.
Nhưng cuộc cống đã
không như tiểu Oanh mong ước. Tiểu bị
giam cầm trong nhà. Mẹ không rời Oanh
nửa bước. Mấy lần Oanh định liều chết mà
không xong. Thiếp đi thì thôi, chứ tỉnh
dậy là tiểu Oanh ngồi xếp bằng quay mặt vào bức tường trông về phía chùa Hoa
Đào, nơi có anh lực điền Vạn, hẳn cũng đang phải trải qua sự mất mát, đau đớn
nhất trong đời. Tại sao số phận run rủi
tiểu Oanh với anh thợ cày nghèo khổ ấy.
Họa có trời mới biết. Mẹ bảo:
- Đó là éo le của
tạo hóa. Bởi vậy bố mẹ đã cho con thoát
tục mà vẫn không sao tránh được khổ đau.
Con còn vương vấn với cuộc đời thì còn khổ cực, đắng cay lắm.
Sau khi sinh nở
mẹ tròn con vuông, bố mẹ giữ thằng Chít lại nuôi dạy và bắt tiểu Oanh bước tiếp
con đường tu hành.
Thằng Chít được cái
khỏe mạnh thông minh. Nó không hề biết
cha mẹ mình là ai. Thỉnh thoảng sư bà
vẫn đến nhà thăm hỏi ông bà ngoại và mua quà cho nó. Tốt nghiệp phổ thông, Niên, tên thật của
thằng Chít, nhập ngũ vào binh chủng pháo binh, chiến đấu trong Vĩnh Linh. Sau hiệp định Pa-ri, Niên được giải ngũ. Anh theo học trường Đại học tài chính. Bây giờ, anh đang làm giám đốc một công ty
trách nhiệm hữu hạn chuyên buôn bán máy vi tính điện tử.
Vào những năm cuối
thập kỷ tám mươi, chùa Hoa Đào bổng nhiên thiếu sư trụ trì. Chẳng rõ có phải do điềm trời khộng, mà hai
ba ni cô thay nhau về chùa được dăm ba tháng lại bỏ đi. Người sau cùng là ni cô Đàm Tú. Các cụ vãi làng Cả bảo, mắt sư cụ tinh lắm,
còn xâu kim được. Nhưng răng chẳng còn
chiếc nào. Sư cụ ăn quả trứng chưng
tương còn độc, chỉ có ăn mướp đắng kho tương thôi. Hết mùa mướp đắng thì ăn củ rau khô dầm
tương. Sư cụ thông tỏ kinh Phật lắm.
Từ ngày cụ Đàm Tú về
trụ trì, cảnh chùa Hoa Đào ngày một khang trang, sầm uất. Sư cụ chữa chùa, sửa tam quan, tô tượng, xây
tháp chuông. Người trong vùng kéo đến
quy y đông lắm. Tiếng tăm, công đức sư cụ lan truyền khắp mọi nợi Không đám hiếu nào, sư cụ không cầm tích
trượng đi làm phúc cầu hồn cho người quá cố được siêu sinh, tịnh độ.
Cái chết của cụ Vạn
trên làng Thượng đã gây một cái sốc lớn trong lòng sư cụ. Nhiều hôm, ông cụ Vạn chăn bò trước cảnh
chùa, sư cụ Đàm Tú vẫn mời ông cụ vào chùa uống chén nước nụ vối. Sư cụ ngồi đối diện với cụ Vạn, vừa bỏm bẻm
nhai trầu vừa lặng lẽ ngắm nhìn cụ Vạn không chán mắt. Lúc ông cụ ra về, bao giờ sư cụ cũng gửi chút
lộc Phật, khi là phẩm oản đường, khi quả chuối, phẩm oản nếp cho các cháu và
tiễn đưa ra tận cổng chùa, quyến luyến một lúc mới chia tay.
Sư cụ cứ ngỡ ông cụ
Vạn tai đã nằng nặng, mắt không còn tinh nữa, hẳn không nhận ra hình dáng tiểu
Oanh khi xưa mà cụ đã nặng lời thề nguyền.
Sư cụ đã tưởng được
yên thân đến khi thác về cõi Phật.
Không ngờ chiều hôm
đó, ông cụ Vạn ngồi uống liền hai chén nước nụ vối và trân trân nhìn sư
cụ. Sư cụ giật mình, hỏi:
- Bạch cụ. Tôi …tôi
hỏi khí không phải xin cụ thứ lỗi.
- Bạch cụ. Con … con
… của … của có còn không?
- Bạch cụ, con … có tử tế, nên người không?
- Thưa cụ, con được ông bà ngoại nuôi dạy chu đáo lắm
- Bạch cụ, tôi muốn … muốn … gặp nó có được không?
- Thưa cụ, mong … mong cụ hiểu cho. Con chưa biết bố mẹ mình là ai?
- Bạch cụ, tôi hiểu, tôi hiểu … Tôi chết nhắm mắt được rồi.
Hóa ra ông cụ Vạn
dở chứng về trời.
Tục lệ ông của làng
Thượng đã đẩy cư sụ Đàm Tú vào thế vô cùng khó xử. Sư cụ ngơ đi cũng chả ai biết đấy là
đâu. Nhưng cái tâm không thể nào
yên. Dù có lên cõi Niết bàn cũng vẫn còn
day dứt, khổ đau. Suốt cuộc đời sư cụ
chịu khổ xác cũng chỉ mong cho cõi tâm được nhẹ nhõm, thanh thản. Bởi thế sư cụ Đàm Tú đã quyết định ra mắt con
trai và báo cho nó biết cha nó là ai,
Hậu quả việc này rồi sẽ ra sao?
Đã có người đời phán xử.
Sư cụ Đàm Tú chống
tích trượng vào đám hiếu ông cụ Vạn.
Người làng Thượng cung kính chào:
- Niệm Nam mô A-di-đà Phật! Bạch cụ đi làm phúc.
Sư cụ cúi chào, đáp
lễ rồi đi thẳng đến bênh linh cữu cụ Vạn.
Bấy giờ sư cụ mới bỏ tấm khăn nâu để lộ ra tấm khăn xô và lấy trong túi
áo ra một dải lụa hồng, trân trọng vắt ngang qua linh cữu ông cụ Vạn …
Làng Gồ Cả
Giờ Thìn, ngày Nhâm Tý, tháng Bính Tuất, năm Ất Hợi