9 tháng 12, 2020

Bánh Khoai Mì (With Cream Topping)


Vật Liệu:

2 bịt khoai mì bào nhuyễn đông lạnh (Cassava 454g mỗi bịt)
2 hột gà
1 hộp nước cốt dừa (coconut milk – 400ml)
1 hộp sữa đặc (300ml)
1 cup sữa tươi hoăc evaporated milk (= 16 muỗng canh hoặc 237ml)
½ cup đường cát trắng (= 8 muỗng canh hoặc118 ml)
1 ½ muỗng café vanilla
1 muỗng café bơ hoặc margarine hay dầu ăn để thoa khuôn
 
Cách Làm:
 
1/  Phần bánh:
 
  • Khoai mì sau khi giải đông, đỗ vào rây và ém khoai xuống để lọc bỏ chất nước.  Để trong tô lớn
  • Dùng một tô khác nhỏ hơn, đánh tan 2 hột gà, lần lượt cho vào ½ hộp nước cốt dừa, ½ hộp sữa đăc, 1cup sữa tươi, 1/2 cup lưng đường cát trằng, 1 muỗng café vanilla. Trộn đều và đỗ vào tô khoai mì trộn đều thêm lần nữa.
 
  • Vặn lò nướng trước 5 phút ở nhiêt độ nóng 350º F.  Để khuôn bánh vào hăm trước  cho nóng, sau 3 phút lấy ra liền và thoa bơ hoặc dầu chung quanh khuôn để bánh không bị dính.
 
  •  Đồ khoai đã trộn ở phần nói trên vào khuôn, cho vào lò nướng độ một tiếng đồng hồ.  Thỉnh thoảng xoay khuôn (trong và ngoài) đều để bánh không bị khét bên rìa
 
2/  Mặt bánh (Cream Topping):
           
  • Cho vào nồi nhỏ ½ hộp nước cốt dừa và ½ hộp sữa đặc, ½ cup sữa tươi và ½ muồng café vanilla.  Đặt lên bếp, để lửa vừa và quạy đều đặn cho đến khi hổn họp hơi sánh lại.  Cream có thê làm trong lúc đang nướng bánh. 
 
  • Khi bánh nướng được 1 tiếng, lấy ra và đỗ cream lên mặt bánh, tráng đều và đút trở lại vào lò thêm ½ tiếng đồng hồ ở nhiệt độ 250º F.  Tắt lửa, phần cream của mặt bánh có thể chưa vàng lắm, nhưng sau khi tắt lửa bánh vẫn để trong oven thêm vài tiếng mặt bánh sẽ vàng.
 
Chú ý:  Đường  & sữa có thể bớt lai cho vừa miệng.  Tránh béo, không dùng coconut cream.




 


Vọng Khúc Đêm Đông



Gió lay chiếc lá cuối cùng
Mưa khuya quét sạch cả khung Thu sầu
Sương mù vạn nẻo về đâu?
Rơi rơi hạt tuyết, chuyển màu Thu Đông

Tiết Đông gợi lại nổi lòng
Hoài hương một cõi mênh mông nỗi buồn
Thanh xuân tuổi ngọc tha hương
Dãi dầu sương tuyết, dậm đường chông gai

Em, người viễn xứ u hoài
Vấn vương, trang trải qua bài tình thơ
Anh nơi quê vẫn đợi chờ
Cô em gái nhỏ mộng mơ thuở nào

Tuổi hồng thoáng chốc qua mau
Bao nhiêu mộng ước chìm vào thời gian
Nghìn trùng cách tr đôi đàng
Đêm Đông vọng khúc chứa chan giọt sầu

  Khúc Giang
Chớm Đông, 2009


13 tháng 11, 2020

Đến Từ Cát Bụi Hay Vô Thủy

 


Đốt nén trầm hương, suối lệ tràn
Trách đời sao tạo cảnh ly tan
Chị từ cát bụi hay vô thủy
Hóa kiếp làm người, nợ thế gian?
 
Hơn nửa cuộc đời vai trĩu gánh
Trái ngang,toan khổ, chịu âm thầm
Đàn con thưở nhỏ, hồn trong trắng
Có hiểu gì đâu cảnh một thân
 
Mười bảy năm dài nào chị biết?
Mặc cho thế sự, mặc trầm thăng
Sống đời quên lảng không phiền não
Cái mặc, cái ăn cũng chẳng màng
 
Ôi xót xa! Dẫu tâm chị tịnh
Biết gì đâu khi hưởng thanh nhàn
Bên con hiếu hạnh chăm lo mẹ
Trọn đạo báo đền công dưỡng sanh
 
Lần cuối giữa thu sang viếng chị
Chạnh lòng, nhòa lệ cảnh thương tâm
Bao năm đột quỵ hành thân xác
Mệnh bạc hồng nhan quá bẽ bàng!
 
Chị từ cát bụi hay vô thủy?
Hóa kiếp làm người, nợ thế gian
Tạo duyên, kết oán, hay vay mượn
Trải kiếp trầm luân … xóa nợ trần


Khúc Giang

23/11/ 2013



1 tháng 1, 2019

Hoa Bướm Sân Trường


Thơ:  Khúc Giang
Nhạc:  Nguyễn Văn Thơ
Ca sĩ:  Lệ Tuyền


Hoa Bướm Sân Trường















Sân trường rợp bóng cây xanh
Giờ chơi đã đến, trống canh nhịp đều
Nữ sinh cười nói dễ yêu
Nam sinh to nhỏ, lắm điều vấn vương …

Nhã Tầm mái tóc dễ thương
Kéo Tơ thắt bím nơ hường xinh xinh
Tóc Thề lỗi hẹn mấy tình
Mi Nhon cắt tém nét nhìn phương tây

Lụa Là chiếc áo vạt bay
Sa Ten chải chuốt nào hay lỗi thời   
Bài Thơ nón lá lả lơi
Tai Bèo theo mode mặn mòi nắng sương

Ve Sầu luyến Phượng thỉu buồn
Bướm hay lã lướt gieo vương thả phiền
Ong ôm một nổi niềm riêng
Si tình má lúm đồng tiền Ô Mai 

Chua chua ngọt ngọt cay cay
Ngọt như ong mật rót tai tỏ tình
Chua như cái liếc xéo nhìn
Nữ sinh cay cú, mặc tình bướm ong 

Khúc Giang
Tháng Bảy, 2009


22 tháng 1, 2017

Mấy Xuân

















Thời gian vội bước đà bao dặm
Xứ lạ quê người trãi mấy Xuân
Quê ta có én về mùa ấm
Đất khách chim di ẩn tiết hàn

Xuân về mai rực vàng cành lá
Đông đến thông ngàn bạch tuyết hoa
Nhớ đến Xuân nhà … ôi rộn rã
Quên sao Xuân lạ … quá qua loa

Khúc Giang
Xuân Đinh Dậu


19 tháng 1, 2017

Một Chữ “Tình”



Gần hai tuần quanh quẩn trong nhà nghỉ dưỡng bệnh, tôi miên mãi suy nghĩ về chuyện "Sinh lão bệnh tử" của một đời người và một chữ “Tình” ở trên thế gian nầy!  Buồn càng thêm buồn khi hồi ức quay về những ngày tháng đầu tiên tôi rời gia đình và quê hương.

Sau khi tốt nghiệp lớp 12, tôi lên Saigon học, nhà trường dùng một khách sạn làm nội trú cho học sinh. Các ngày đầu bận bịu với sinh hoạt, nội quy và làm quen bạn mới từ Nam ra Bắc, nay được gom tụ lại trong cùng khóa học. Tôi dường như không có thời gian để nghĩ đến chuyện nhớ nhà.

Đến ngày thứ bảy của tuần thứ ba, tôi cùng bảy người bạn đạp xe rảo một vòng Saigon, sau đó ra chợ Bến Thành dạo quanh chợ trước khi được Thanh Hương (người Mỹ Tho) dẫn cả bọn đi ăn bún bò Huế. Quán bún bình dân, nằm trong một hẻm nhỏ của thành phố nhưng đông khách. Mặc dù trời nóng bức nhưng đứa nào cũng vừa húp và hít hà vì hương vị thơm ngon và cay nồng.

 Trở về trường thì trời đã tối, 9 giờ là chúng tôi tắt đèn, vào giường nằm nhưng vẫn chưa ngủ! Chợt có tiếng hát của Thị Hoa (người Thủ Đức) từ góc phòng vọng ra , chúng tôi im lặng lắng nghe cô bạn đang thổn thức hát bài “Lòng Mẹ”.  Phòng tối, giọng hát buồn cộng thêm lời bài ca về tình mẹ gợi đến nỗi nhớ nhà trong từng ngăn tim của tôi và các cô bạn. Tiếng hát đã dứt, tuy hay nhưng không một ai vỗ tay để khen thưởng.  Có lẽ như tôi, các bạn quay mặt vô tường, rưng rức khóc vì nhớ mẹ mình!

Sau một tháng, trường cho chúng tôi nghỉ ngày thứ Sáu để về thăm gia đình, chiều thứ Năm là chúng tôi chia tay, chỉ có chị Mừng là không về, vì nhà chị ở tận Hưng Yên! Trưa ngày Chúa Nhật các bạn trở về trường đông đủ, mỗi chúng tôi ngoài việc mang gạo và đồ ăn (để lén nấu trong phòng) thì mang theo đặc sản của quê mình để chia nhau cùng ăn. Thanh Hương mang chuối khô Mỹ Tho, Sương mang kẹo dừa Bến Tre, Thị Hoa và Kim Sa mang nem Thủ Đức, Nguyệt Oanh và Thùy Nhung mang bưởi Biên Hòa, Liên mang một bao cát đầy trái bơ (avocado) từ Lâm Đồng, riêng tôi thì mang vài soài cát và soài tượng.

Trong thời gian này bệnh bao tử của tôi ngày càng nặng, có lẽ vì ăn bo bo nhiều hơn ăn cơm. Các bạn học thay phiên chăm sóc và nhiều lần đưa tôi đi bệnh viện. Từ những chia sẻ và lo lắng cho nhau trong những ngày xa gia đình, tình bạn của chúng tôi ngày thêm thắm thiết, tôi thấy thật ấm lòng!

Học đến giửa năm thứ hai tôi được chị lên Saigon đón về quê và âm thầm rời Việt Nam.

****

Hành trang trên mình để đi Rạch giá theo ghe ra khơi là một ít thuốc nhức đầu,thuốc đau bao tử, thuốc say sóng, dầu cù là, kẹo gừng, bao nhỏ thịt heo chà bông, hai bộ đồ và một sợi dây chuyền đeo cổ. Buổi sáng, chúng tôi bốn người rời bến xe và được người một ngườI đàn bà ra đón, bà đưa chúng tôi vào căn nhà lá xụp xệ trong hẻm nhỏ gần bờ biển. Đến gần chiều, có người khác đến đưa chúng tôi vào một căn nhà khá lớn. Chúng tôi được họ mời cơm với món thịt kho, canh chua cá nhám chấm với nước mắm nguyên chất, tôi chưa bao giờ được ăn nước mắm ngon như thế! Trong bửa cơm, ông bà chủ nhà trò chuyện với chúng tôi rất cởi mở, tôi rất vui và có nhiều ấn tương tốt cho các người dân miền biển này!

Hơn nửa khuya, chúng tôi được báo là đến giờ xuống ghe, bà chủ bảo là sẽ cho  từng người lần lượt rời nhà, vì để tránh tai mắt của người trong xóm nên hành lý và nữ trang trong người phải để lại, họ sẽ cho người mang xuống ghe sau. Nghe lời, tất cả chúng tôi đều để lại đồ của mìn trừ anh tôi còn giữ lại được sợi dây chuyền trong túi quần.

Người từ ghe nhỏ lần luợt được đưa ra ghe lớn, già trẻ bé lớn là bốn mươi bảy người, chúng tôi êm ả ra khơi! Được nửa ngày thì cả tất cả người trong ghe mới biết là không một ai nhận lại được đồ của mình từ các nhà họ tạm trú trong ngày! Hai ngày lênh đên trên biến, chúng tôi được phát một vắt cơm và nước lã cho mỗi buổi ăn sáng và buổi chiều.

Đến chiều ngày thứ ba, xa xa có một chiếc tàu dầu của Tây Đức, ông tài công lập tức quay hướng ghe và tiến thẳng về tàu dầu! Thuyền trưởng cho tàu ngừng lại để cho ghe tiến lại gần tàu được an toàn, ông cho đầu bếp trưởng người Singapore làm thông dịch khi biết trên ghe có vài người Hoa.  Ông giới thiệu, ông tên là Yan, theo lời thuyền trưởng là nếu máy tàu còn tốt thì họ sẽ cho thêm dầu để ghe tiếp tục cuộc hành trình, nhưng nếu máy hư thì họ sẽ đưa người lên tàu và ông sẽ liên lạc với Cao Ủy ở Thailand cho phép chúng tôi vào bờ. Riêng ông đầu bếp đề nghị (nói nhỏ) với chúng tôi là nên phá máy cho hư để được ông thuyền trưởng cứu vớt, vì quanh vùng cướp biển đang lộng hành, người trên tàu không biết sẽ sống chết sẽ ra sao trong các ngày tới!

Nghe lời, ông tài công khéo léo phá máy trước khi thợ máy trên tàu xuống kiểm soát, sau vài phút thợ máy xem xét kỹ lưỡng, ông cho biết là ghe không thể tiếp tục chạy được nữa! Thế rồi, chúng tôi được vớt lên tàu lớn, được cho tắm rửa và ăn uống tử tế!

Sau ba ngày chờ đợi tin của Cao Ủy LHQ, chúng tôi được chấp nhận cho chuyển vào trại Songkhla – Thailand! Tôi nhớ mãi Yan, người đầu bếp Singapore đã nấu cho chúng tôi những bửa cơm ngon và buổi  ăn sáng là món cháo cá hồng bắt được gần dàn khoan. Ngoài ra, ông bảo chúng tôi viết thư thông báo cho gia đình bên nhà biết tin bình an, khi lên bờ ông sẽ gởi giùm. Cám ơn Yan, cám ơn thuyền trưởng và các thủy thủ trên tàu đã cho tôi một “Tình người” vô giá!

****

Đến trại tỵ nạn Songkhla, tôi thấy đông đảo người Việt đứng bên trong rào, xôn xao và nhìn ra ngoài cửa để tìm người thân hay bạn trong số người chúng tôi. Tuy biết là không phải là sự chào đón mình từ các đồng hương, nhưng lòng tôi có chút vui vui vì mình đến nơi bình an và có nhiều người đồng cảnh.

May mắn, em tôi gặp được anh Thương, bạn học chung trường Đại Học Tài Chánh, anh và vài người bạn ân cần mời anh em chúng tôi về ở chung lều với các anh vì các anh cũng sắp đi định cư định. Trước khi theo các anh về lều, chúng tôi gặp được Nga và Hiệp, Nga học chung trường Trung học với tôi, ba của Nga xưa là một sĩ quan trong trại linh Công Binh gần nhà. Tuy trước đây học chung trường, nhưng chưa bao giờ Nga và tôi nói chuyện, bây giờ gặp lại nhau tay bắt mặt mừng! Sau đó Nga cho hai chị em quần áo lót, một ít đồ dùng và hướng dẫn nhà tắm, nhà vệ sinh trong trại. Vài ngày sau là vợ chồng Nga rời trại đi Canada.

Trong thời gian anh em tôi ở chung lều với các anh , chúng tôi thật vui! Hai chị em học làm cá, thổi lửa và nấu cơm từ anh Trung và anh Tín, các anh chỉ một ít tiếng Thái và cách xài tiền để đi chợ. Mỗi chiều cơm nước xong, anh Phương hay ngồi trước lều hát lại các bài nhạc xưa, anh hát hay nhất là bài “Bên Cầu Biên Giới”.

Đêm 30 Tết thật ảm đạm, nằm nghe bảnh nhạc “Xuân Này Con Không Về” của  tiếng hát Duy Khánh được phát ra từ đài phát thanh của trại. Từng lời nhạc gợi cho  tôi nỗi buồn xa xứ, nỗi nhớ  thương và lo lắng má mình ăn Tết hẩm hiu bên nhà.  Tôi bật khóc thành tiếng!

Tuy thời gian nầy cực khổ nhưng dường như nhiều người trong trại không ai lo nghĩ đến cái ăn, cái mặc vì có đã sự trợ giúp của Cao Ủy. Ngoài gạo, không cá mòi hộp thì cá biển cũng lây lất sống tạm qua ngày. Lần lượt anh Thương, Trung, Tín, Phương, Long, Lan, Đức, Thiện.... cũng rời trại đi định cư ở Mỹ.  Mỗi lần đưa tiễn đều là một chầu cà phê tối ở một trong những quán nhỏ.  Bây giờ không biết các bạn sống ra sao, hy vọng tất cả đều tốt đẹp!

Một tháng sau, cháu tôi ở Canada nhận được thư do anh tôi nhờ ông Yan gửi trước đây. Cháu lập tức gởi cho chúng tôi 100 dollars. Mua sắm một ít đồ dùng cá nhân, em mua vải và khéo tay cắt và may từng mủi kim cho các bộ quần áo của hai chị em. Tiền chi phí còn lại chút đỉnh, cộng với số tiền bán sợi dây chuyền , anh tôi sang lại một quầy cà phê nhỏ trong trại để sống lay lất qua ngày chờ ngày đi.

Ba anh em thay phiên nhau ra quán bán từ sáng cho đến chiều. Tối đến, anh ôm chiếc chiếu ra quán ngủ để coi chừng đồ, anh không ngại gió biển lạnh khi càng về khuya. Một lần chúng tôi thấy được cảnh anh cuộn tròn trong chiếu nằm ngủ ngoài trời , hai chị em thật dau lòng. Bây giờ nghỉ đến thấy thương anh mình nhiều hơn!

****

Vào một buổi sáng, đang đứng pha cà phê ở quán, bổng dưng tôi bị ngã quỵ, bụng đau như cắt, hoàn toàn mất hết sức lực! Tôi được anh và vài người quen dìu về lều để nghỉ ngơi, nhưng bụng càng lúc càng đau, tôi không còn nằm thẳng lưng được nữa! Biết là bệnh bao tử lúc trước nay trở nặng, em tôi nhờ người quen cùng đưa tôi đến trạm y tế của trại, sau khi bác sĩ người Pháp khám bệnh, ông lập tức chuyền nước biển cho tôi để giảm đau và cho thêm một chai để dành chuyền tiếp khi chai kia hết vào buổi tối , ông bảo chúng tôi chờ đến sáng hôm sau để biết sự quyết định của Cao Ủy về chi phi cho tôi vào bệnh viện điều trị .

Hơn nửa khuya, chai nước biển đã cạn, em tôi nhờ bác sĩ trực người Việt chuyền tiếp chai thứ hai cho tôi, nhưng bị ông từ chối! Nằm thiêm thiếp nghe tiếng em tôi cãi vã với ông:

-    Tui có nghe người thông dịch nói lại là bác sĩ Pháp có dặn với ông là còn một chai nước biển để dành cho chị tôi dùng khi hết chai nầy mà!

Ông nói:

-    Có nghe lộn không? Đâu có chai nào đâu!

Em gái tức giận và nói:

-    Lúc chiều tui nghe ông nói với người thân là có chai nước biển và ông kêu người ấy lên trạm để ông chuyền cho.Vậy chai đó đâu hở bác sĩ ?

Dằn co không được, lại thấy cơn đau của tôi càng tăng, nóng lòng em đem sự tình kể cho anh Nhân là một người bạn quen đang làm thiện nguyện cho trạm y tế! Cuối cùng, anh lấy chai nước biển khác để tiếp tục chuyền cho tôi!

Sáng hôm sau, hòan tất thủ tục tạm xuất trại, tôi được bác sĩ đưa tôi vào một bệnh viện lớn ở Songkhla. Gần hai ngày trời nằm mê mang từ cuộc giải phẩu lớn, tôi tỉnh dậy, nhìn xung quanh không một bóng người thân, toàn thân là dây nhợ! Mơ hồ, nhớ lại chuyện xảy ra trong các ngày qua, chợt dòng nước mắt buồn tủi chảy dài trên má!

****

Bây giờ, ngồi nhớ lại câu nói của má trong ngày tiễn đưa trước khi anh chị em tôi bước lên chiếc xe lôi đạp ọp ẹp để đến bến xe đi Rạch Giá:

-    Má không biết quyết định cho con đi là việc đúng hay là sai?

Tôi không trả lời, chỉ biết nhìn người mà khóc! Xe lăn bánh xa dần nhưng bóng má vẫn còn đứng bên kia cầu dõi mắt nhìn theo mà nước mắt của người không ngừng rơi.

Vâng, quyết định của má khi xưa là đúng, rất đúng má ạ! Bốn cây vàng đã cứu lại mạng sống của con trong chuyến đi nầy và cho con nhiều bài học về tình người.

Con xin cám ơn má, cám ơn anh trai và cô em út cùng chia sẻ trong những tháng ngày khổ cực, cám ơn những người bạn tốt và cám ơn đời cho tôi nếm được những cay đắng, ngọt bùi.

Yên Dạ Thảo
15/05/2014